Hiển thị các bài đăng có nhãn Phút Cầu Nguyện Cuối Ngày. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phút Cầu Nguyện Cuối Ngày. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012
Thời Giờ Là Của Chúa
Nói Với Chúa Chứ Không Nói Về Chúa
Một thầy dòng nọ viết như sau: tôi thấy thỉnh thoảng có những chủng sinh, linh mục giỏi về thần học lại bỏ cuộc. Trong số đó có các các vị là giáo sư thần học nổi tiếng đã từng viết những quyển sách về thần học rất hay; và nếu có lưu ý, chúng ta sẽ thấy những diễn biến đó không xảy ra một cách đột ngột nhưng chậm từ từ. Lòng nhiệt thành từ từ giảm nhiệt, đức tin yếu dần.
Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012
Phép Lạ
Truyền ký về các thánh ẩn tu trong sa mạc thời tiên khởi có kể lại mẩu chuyện như sau:
Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do một bậc chân tu thực hiện, nhưng người đàn ông này không chấp nhận bất cứ một lời đồn đãi nào. Ông chỉ tin những gì ông thấy tận mắt và nghe tận tai mà thôi. Thế là ông lên đường vượt qua không biết bao nhiêu trắc trở để diện kiến cho bằng được vị chân tu. Ðến nơi, trước khi để gặp được vị chân tu, ông gọi một người đệ tử đến và tra hỏi:
Thầy của anh đã làm được tất cả bao nhiêu phép lạ rồi?
Người đệ tử trả lời:
Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại: Chúng tôi coi là một phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
* * *
Quý vị và các bạn thân mến,
Có phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa, ước gì qui luật này trở thành qui luật hướng dẫn chúng ta trong suốt mùa Phục Sinh này, đó có thể là ý tưởng mà chúng ta có thể rút ra được từ bài Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong ngày hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai hạng chứng nhân về việc Chúa Giêsu sống lại. Một bên là những người đàn bà đã từng theo Chúa Giêsu và một bên là những người lính canh canh mồ do các luật sĩ Biệt Phái và các Thượng Tế cắt đặt. Cả hai đều nhận lãnh một sứ điệp.
Những người đàn bà được các thiên thần cổ võ lên đường loan báo phép lạ và sứ điệp cho các tông đồ, còn những người lính canh mồ thoạt tiên cũng lãnh nhận được sứ điệp như thế, họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay cho sự tuân phục của đức tin thì họ lại bóp méo và chối bỏ sự thật, một sự kiện nhưng hai phản ứng.
Với sự tuân phục của đức tin, những người đàn bà đã đón nhận phép lạ và trở thành những người loan báo sứ điệp Phục Sinh. Trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những người lính canh mồ đã biến sự kiện thành một đe dọa, phỉ báng.
Từ 2,000 năm qua và mãi mãi, sứ điệp Phục Sinh vẫn được tiếp tục loan báo, phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn, các thánh tông đồ và những người đàn bà được Chúa Giêsu hiện ra có lẽ được diễm phúc hơn chúng ta, nhưng các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước sự kiện Chúa Giêsu sống lại và hiện ra.
Những người lính canh mồ cũng đã chứng kiến những điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ. Sự khác biệt giữa các tông đồ, những người đàn bà và những người lính canh mồ chính là sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường mà trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thật thế, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài cho con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử con người, nhưng chỉ khi nào con người tin nhận Chúa và sống theo thánh ý của Ngài, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã chẳng hứa: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Thiên Chúa chiếm ngự, là sống theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh.
Xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm tư, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự, chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa và như thế cảm nhận được phép lạ tình yêu của Chúa trong từng phút giây của cuộc sống.
Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012
Tinh Thần Cầu Nguyện
Chúa Giêsu chính là bạn thân tình của chúng ta. Nơi Ngài chúng ta có thể ký thác mọi sự mà không sợ bị phản bội bao giờ. Người đứng ngoài cửa mà gõ. Ngài đợi chúng ta mở cửa cho Ngài vào nhà, nhưng không bao giờ Ngài áp đặt thánh ý Ngài trên ta, chỉ mong đợi chấp nhận chương trình tốt đẹp Ngài dành sẵn cho hạnh phúc đời sống chúng ta và được gặp gỡ chúng ta cách thân mật trong kinh nguyện.
Cầu nguyện còn là cơ hội tốt đẹp để chúng ta bày tỏ tình liên đới và hiệp nhất với người khác nữa, cả những khi cầu nguyện một mình, chúng ta vẫn có thể liên hiệp trong tinh thần với tất cả những người khác cũng đang cầu nguyện. Càng tiếp xúc gần gủi với những người đau khổ, việc cầu nguyện của chúng ta càng thêm phong phú và cảm thấy cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa.
Cầu nguyện là cao điểm của đời sống người tín hữu. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta bỏ qua hay khinh thường những nhu cầu vật chất và tinh thần của đời sống. Trái lại, chúng ta dâng lên Chúa tất cả những nhu cầu đó, để bày tỏ tâm tình biết ơn, niềm vui sướng cũng như để cầu xin sự cứu trợ của Ngài, để Ngài thêm sức nâng đỡ những nỗi khó khăn bất lực của chúng ta nữa. Cha Anthony de Melo, một giảng viên rất nổi tiếng người Ấn Ðộ đã có lần kể rằng:
Con trai của Giáo Chủ đạo Bà Hai bên Ấn Ðộ. Một hôm, nhân lúc đi đường ông được mời nghỉ chân tại một gia đình rất khá giả, bà chủ nhà vốn có lòng hiếu khách, nên muốn trổ tài nấu ăn để làm vui lòng khách quí. Tiếc thay, khi dọn mâm cơm lên bàn bà đã phải khiêm tốn xin lỗi khách quí vì cái mùi khen khét của các món ăn. Bà phân trần: vì muốn bữa cơm thành công tốt đẹp, nên trong khi nấu nướng, bà đã cầu nguyện nhiều nên quên chú tâm vào công việc bà đang làm. Vị khách quí mĩm cười vui vẻ trả lời:
Việc cầu nguyện là điều rất tốt đẹp, nhưng lần sau, khi bà làm bếp, bà hãy cầu nguyện với quyển sách dạy nấu ăn thay vì quyển Kinh Thánh.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Câu trả lời của vị khách diễn tả một sự thật rất thực tế. Cầu nguyện không phải là trốn tránh trách nhiệm, cũng không ỷ lại vào quyền năng của Chúa để rồi khoanh tay làm biếng. Cầu nguyện giúp chúng ta đạt được những gì mà sức hạn hẹp chúng ta không thể thành công được. Cầu nguyện là chìa khóa của thành công, nhưng không phải là thứ thành công theo như trí khôn thấp kém của chúng ta mong ước, nhưng là thành công trong việc chấp nhận những gì mà trong sự khôn ngoan thông suốt của Chúa muốn dành để cho lợi ích và hạnh phúc của chúng ta.
Như thế, hoa trái đầu tiên của cầu nguyện là sự an bình của tâm hồn, là niềm vui triển nở trên gương mặt biết chấp nhận những khó khăn thử thách và các ý riêng mình. Chúng ta không cầu nguyện vì bị bó buộc hay gượng ép, nhưng bày tỏ cử chỉ phát sinh tự nhiên từ tình thương, từ tấm lòng người con thảo sung sướng được cởi mở tâm tình với cha mẹ, để nói lên hạnh phúc được làm con, được yêu thương và để bày tỏ lòng biết ơn đối với những hồng ân được cha mẹ ban tặng cho.
Lời cầu nguyện là như sương sa làm cho đất ẩm ướt, cây cối tươi mát. Lời cầu nguyện cũng như dòng suối trong mát chảy tới đâu đều đem lại sự sống và rửa sạch tới đó. Như người ở gần lửa được sưởi ấm và được chiếu sáng.
Cũng vậy, người có tâm hồn cầu nguyện là như dìm mình trong nguồn mạch sống, bởi vì Chúa là nguồn mạch sự sống và là ánh sáng.
Khi cầu nguyện, chúng ta nói lên rằng: Lạy Chúa, con tin thật Chúa hiện hữu và Chúa quan tâm đến con. Amen.
Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012
Cái Giếng Cũ
Có người kể chuyện về một cái giếng cũ như sau:
Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.
Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại.
Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.
* * *
Quý vị và các bạn thân mến,
Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Từ cạnh sườn Người, khi một người lính La Mã đâm thủng thì nước hằng sống đã tuôn trào để xoa dịu nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì nguồn nước mới tuôn trào. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn.
Song song với những hy sinh, hãm mình, nhẫn nại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng được mời gọi để sống san sẻ. Ðó không là một việc làm tùy hứng, mà là một đòi hỏi thiết yếu của sự hoán cải. Hoán cải đích thực là trở về với sự thật về con người. Ðó là một con người lấy sự trao ban làm lý tưởng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại và đã trở thành nguồn mạch tuôn trào xoa dịu nỗi khao khát của chúng con.
Xin cho chúng con khi suy ngắm về cuộc tử nạn của Chúa cũng luôn biết bước theo con đường của chính Chúa. Ðó là con đường của phục vụ, quảng đại, quên mình. Amen.
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012
LẮNG NGHE LỜI THÌ THẦM
Chỉ khi nào con người biết quen thân với thâm tâm mình, lúc đó mới có thể gặp gỡ người khác được.
Một giáo sư chuyên về nghệ thuật đúc giấy làm hình, một nghệ thuật lâu đời của người Nhật kể lại như sau:
Hôm ấy tôi được mời đến biểu diễn tại trường đại học kỷ thuật tại một thành phố bên Nhật Bản, tôi chuẩn bị đem theo chừng vài trăm con chim sếu bằng giấy màu đã được gấp sẵn để tặng cho khách đến thăm gian hàng của tôi. Trước ngày lên đường, trong khi thu xếp hành lý, tôi nghe như có tiếng thì thầm bảo tôi: Dùng tờ giấy kẽm màu vàng, làm một con chim sếu vàng đem theo với tôi. Tiếng thì thầm thúc đẩy tôi cách mãnh liệt làm tôi phải đi tìm trong đống giấy một tờ giấy kẽm màu vàng bóng láng. Tôi tự nhủ, mà tại sao tôi lại phải dùng giấy bóng làng này cho khổ công khổ sức, loại giấy màu thường dễ xếp hơn nhiều, nhưng tiếng nói kia trong tôi cứ tiếp tục thầm thì thúc đẩy tôi phải dùng giấy đó, tôi bực mình lẩm bẩm một mình, tiếng đó lại bảo thêm là ngày mai tôi phải tặng con chim màu vàng bóng láng đó cho một người đặc biệt, nhưng người đó là ai mới được chứ? Rồi sẽ biết sau. Tiếng nói thầm ấy xem ra như ra lệnh cho tôi mỗi lúc một quả quyết hơn.
Tối hôm ấy, tôi phải mất giờ lắm mới xếp xong con chim sếu với tờ giấy màu vàng bóng láng kia. Nhưng sau cùng, tôi cũng hài lòng vì đã hoàn thành một con chim tuyệt đẹp, duyên dáng trong tư thế như sẵn sàng cất cánh bay cao, kế đó tôi cẩn thận bỏ nó vào trong hộp với 200 con chim khác bằng loại giấy thường đủ màu sắc mà tôi đã làm từ mấy tuần trước đó, sẵn sàng đem đi chưng bày biểu diễn.
Sáng hôm sau, hàng trăm người lần lượt đến trước gian hàng của tôi và hỏi về nghệ thuật xếp giấy làm chim, tôi kiên nhẫn giải thích cho từng người, xếp giấy, mở ra, rồi xếp lại. Trong số khách hàng, tôi nhận thấy có một bà đã cao niên, lúc đó tiếng thì thầm trong tôi mách bảo tôi rằng: Người đặc biệt chính là bà ấy, tôi chưa gặp bà bao giờ và bà cũng không nói một lời nào, bà chỉ đứng yên lặng quan sát việc tôi làm, tôi thoáng nhìn bà rồi đưa tay vào trong hộp lấy con chim sếu bằng giấy kẽm màu vàng láng bóng trao cho bà và nói:
- Thưa bà, tôi không biết sao, nhưng có tiếng thì thầm trong tôi bảo tôi tặng bà con chim sếu này. Ðó là biểu tượng của bình an.
Bà cụ không nói một lời nào, chỉ giơ tay đỡ lấy con chim bé bỏng và nâng niu nó trong lòng hai bàn tay khác nào con chim sống thật vậy. Tôi ngước mắt nhìn gương mặt đượm nét buồn của bà và nhận ra cặp mắt bà đã đỏ hoe vì đẫm lệ, một lúc sau bà cụ nhẹ nhàng giơ tay gạt nước mắt rồi nghẹn ngào nói:
- Nhà tôi qua đời cách đây hai tuần, hôm nay là lần đầu tiên tôi bước chân ra khỏi nhà sau ngày an táng nhà tôi. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 50 năm ngày thành hôn, ngày lễ vàng hôn phối của chúng tôi.
Vừa nói tay bà cụ vừa nâng niu con chim giấy vàng với tất cả sự trìu mến khác nào đứa con yêu dấu nhất của bà. Bà cụ ngước mắt nhìn tôi nói tiếp:
- Cám ơn ông đã tặng cho tôi món quà quí giá và đầy ý nghĩa sâu xa này, bây giờ tôi có thể biết chắc rằng: nhà tôi đã ra đi và đang an nghỉ trong bình an. Ông thấy đó, tiếng nói thì thầm đã thôi thúc trong lòng ông là tiếng nói của Chúa và tôi biết rằng đây là món quà quí nhất đối với tôi trong ngày kim khánh hôm nay. Cám ơn ông đã biết lắng nghe tiếng thì thầm trong tâm lòng ông.
Quả thật, tôi không bao giờ quên lời bà cụ, và từ ngày đó tôi học được bài học khôn là luôn lắng nghe tiếng nói thì thầm bên trong, cả khi tôi không hiểu được hết lý do tại sao nữa.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Biết lắng nghe là cả một nghệ thuật cao đẹp, là trường học khôn ngoan trong đời sống con người, nhưng rất tiếc là môi trường xã hội ngày nay lại quá ồn ào với mọi thứ tiếng động, điếc tai chỉ làm xáo động tâm hồn và bóp ngạt dần tiếng thì thầm trong ta. Tuy sống giữa xã hội xô bổ, nhưng sở dĩ con người ngày nay cảm thấy cô đơn hiu quạnh là vì họ không còn biết lắng nghe chính mình nên cũng không biết lắng nghe những người sống chung quanh họ nữa, họ tưởng rằng những tiếng động bên ngoài có thể làm im đi những xáo trộn bên trong, nhưng nó chỉ làm cho con người thêm xa lạ với chính mình và với người khác. Trái lại, chỉ khi nào con người biết quen thân với thâm tâm mình, lúc đó mới có thể gặp gỡ người khác được.
Lạy Chúa, Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn con, nhưng con lại dại dột đi tìm kiếm Chúa nơi những cái bên ngoài con. Chúa nói thầm trong đáy lòng con, nhưng lắm lúc con lại bưng tai giả điếc làm ngơ.
Xin Chúa dạy con biết dừng lại trước cửa nhà nội tâm con, biết nhận ra tiếng Chúa và biết mau mắn tuân theo những gì Chúa chỉ bảo cho con, cả khi con không hiểu gì, cũng chẳng thấy rõ điều chi trước mắt con.
Ước chi mỗi tối đến, con có thể lên giường ngủ an bình, bởi vì trong ngày con đã không từ chối Chúa điều gì, cũng không làm chi phiền lòng tha nhân của con. Amen.
NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN
Người tín hữu chỉ cần biết cởi mở tâm hồn để cho nước hằng sống là Lời Chúa, ơn Thánh của Chúa tràn vào, thanh tẩy và rửa sạch.
Hôm đó nhằm ngày Chúa Nhật, một thiếu phụ đứng rửa rau trong bếp, sửa soạn bữa cơm trưa cho gia đình. Bà vốn là một tín hữu rất sùng đạo, cho dù phải vất vả với công việc làm ăn hay bận rộn cách nào, bà cũng không bao giờ bỏ thánh lễ ngày Chúa Nhật, và khi có thể, bà còn dự Thánh Lễ ngày thường nữa. Trái lại, chồng bà tuy là người có đạo nhưng ít khi bước chân đến nhà thờ, cũng không đọc kinh sáng tối. Ðang lúc bà rửa rau thì ông bước vào sau mấy trận chơi banh với các ông bạn. Với giọng chế nhạo, ông cất tiếng hỏi:
- Bà có thể nhắc lại vài điều về bài giảng sáng nay không?
Ngẫm nghĩ một lát bà thành thật đáp lại:
- Tôi quên hết rồi.
Ông chồng vừa cười vừa nói thêm:
- Thế bà đến nhà thờ để có ích gì? Nghe giảng mà chẳng nhớ gì hết.
Bà thản nhiên đáp:
- Ông hãy xem những lá rau này, nước rửa những lá rau này tuy không còn đọng lại trên lá rau, nhưng nước rửa sạch mọi dơ bẩn nơi lá rau. Từ lời nói thực tế đó đã làm chồng bà phải suy nghĩ và từ đó ông đã thay đổi hẳn cách sống đạo của ông.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
"Nước chảy đá mòn". Câu ca dao Việt Nam gói ghém một ý nghĩa thật sâu xa, nó diễn tả giá trị của sự bền tâm tin cậy.
Trên một ngôi mộ trong nghĩa trang bên Anh Quốc có ghi hàng chữ như sau: "Con đường thánh thiện làm bằng những việc nhỏ mọn, thế nhưng nên thánh hẳn không phải là việc nhỏ nhen". Chúa Giêsu phán với các môn đệ: "Ai bền tâm đến cùng sẽ được cứu rỗi". Bền tâm là nhân đức tối cần của người tín hữu, và hơn thế nữa có thể nói được là áo mặc, là dép đi trong chân của các vị thừa sai truyền giáo, họ ra đi miệt mài với sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nhưng không quá bận tâm đến việc lĩnh hội của những người nghe. Kết quả của sứ mạng tông đồ không phải là nói nhiều, nói hay. Nó không dựa trên tài hùng biện của người nói, cũng không lệ thuộc vào trí nhớ của người nghe, nhưng dựa trên sức mạnh của Lời Chúa, Lời Hằng Sống, Lời ban Sự Sống, Lời có sức thánh tẩy chữa lành và đổi mới.
Ðời sống người tín hữu không phải là cái máy vi tính, càng thu thập được càng nhiều dữ liệu bao nhiêu càng tốt, càng được coi là khí cụ tinh vi, tối tân. Việc sống đạo của người tín hữu không chỉ căn cứ trên việc thu thập cho nhiều kiến thức về đạo, thuộc được nhiều kinh, nhưng để cho sự hiểu biết chân lý, sự tiếp xúc với lời Chúa dần biến đổi tâm hồn chúng ta. Con đường trưởng thành trong đức tin, con đường nên thánh đòi hỏi thiện chí và sự đóng góp của mỗi người có thể nói được là chỉ 1% thôi, còn vai trò chính yếu 99% kia là việc của Chúa. Người tín hữu chỉ cần biết cởi mở tâm hồn để cho nước hằng sống là Lời Chúa, ơn Thánh của Chúa tràn vào, thanh tẩy và rửa sạch. Chính vì niềm xác tín này mà các Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng với tâm lòng khiêm tốn đầy tin tưởng. Họ tin rằng, chính Chúa là Ðấng làm cho hạt giống đức tin nẩy mầm. Lời Chúa là như sương sa tươi mát, là như ánh mặt trời làm cho cây cối tươi tốt và sinh hoa kết trái mỗi thứ tùy theo giống và theo thời tiết riêng của nó.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tâm hồn khiêm tốn mỗi lần tiếp xúc với Lời Chúa.
Xin mở lòng con ngoan ngoãn đón nhận Lời Chúa và kính cẩn mỗi khi rao truyền Lời Chúa cho anh em.
Xin đừng để cho sự nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, thiếu bền chí trong con làm cho Lời Chúa phải ra khô héo hoặc phải chết ngộp trong con cũng như nơi anh em con.
Lạy Ngôi Lời Hằng Sống, xin nước ơn thánh của Chúa tẩy sạch con, đổi mới đời sống con. Amen.
Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012
Con Chó Hám Danh
"Bạn càng có tài cao thì càng phải sống khiêm tốn,
và chỉ khi sống khiêm tốn bạn mới được Thiên Chúa chúc lành".

Hai con vịt trời đề nghị nó đi tìm một sợi dây dài và chắc chắn, cột hai đầu dây vào cổ hai con vịt còn nó thì gậm vào giữa sợi dây, hai con vịt trời sẽ bay về thành phố và như thế nó sẽ được bay luôn trên không vào thành phố dạo chơi một vòng. Thế là mọi sự đã được chuẩn bị chu đáo. Hai con vịt trời và con chó bắt đầu chuyến phiêu lưu, nhưng khi đang bay thì có một con chó khác từ dưới đất nhìn thấy và lên tiếng hỏi với lòng đầy khâm phục:
- Thật là tuyệt vời, không biết đây là sáng kiến của ai trong ba vị?
Con chó muốn dành cho mình mọi sự kính phục, nên vội mở miệng nói to:
- Ðó là sáng kiến của tôi.
Nhưng nói chưa hết lời thì nó rơi xuống đất chết luôn.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Nhiều lần chúng ta cũng đã mở miệng dành nói vì ham danh vọng như con chó ham danh trong chuyện vui trên, nên đã gây ra không biết bao tai hại cho mình và cho kẻ khác. Lòng ham danh vọng, ích kỷ và kiêu ngạo là những tật xấu ăn rễ sâu trong bản tính tự nhiên con người rất khó chừa bỏ đến độ Thánh đệ Salê đã nói như sau: "Tính tự phụ kiêu ngạo nơi mỗi người chúng ta chỉ chết đi 15 phút sau khi ta đã chết". Hơn nữa, môi trường xã hội chung quanh xem ra không còn đề cao lòng quảng đại, vị tha, sự phục vụ khiêm tốn cho anh chị em, mà ngược lại nó tích chứa những yếu tố kích thích lòng ham danh lợi, tính tự phụ của mỗi người chúng ta. Nhiều lúc chúng ta bị cám dỗ muốn làm việc này việc nọ, muốn nói những lời này, lời khác cốt ý để khoe khoang và mưu tìm danh vọng cho bản thân mà thôi, và đó chính là chúng ta tự đào hố chôn mình giống như con chó trong dụ ngôn vừa được kể trên đây.
Tật xấu này không phải chỉ có người thời đại hôm nay mà thôi, nhưng của con người thuộc mọi thời đại. Vào thời Chúa Giêsu cũng vậy. Chúa đã cảnh tỉnh các đồ đệ và khuyên các ngài hãy sống khiêm tốn, đừng ỷ lại vào chính mình, nhưng vào tình thương của Thiên Chúa. Ðoạn Phúc âm thánh Luca (Lc 14,11) đã ghi lại lời Chúa phán như sau: "Ai muốn nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên". Và sách Khôn Ngoan (Kn 3,18) cũng có lời khuyên như sau: "Bạn càng có tài cao thì càng phải sống khiêm tốn, và chỉ khi sống khiêm tốn bạn mới được Thiên Chúa chúc lành".
Lạy Chúa, xin chúc lành cho tất cả mọi người chúng con. Xin giúp con thoát khỏi tánh tự phụ, kiêu ngạo, ham danh lợi. Cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn phục vụ Chúa và anh chị em. Amen.
Sưu tầm
Lâu Đài Xây Trên Cát
Một ngôi nhà xây trên cát là một ngôi nhà không có nền móng. Chúa Giêsu bảo đó là một công trình điên dại nhất, điên dại là bởi vì mặc dù biết chắc ngôi nhà sẽ bị sụp đổ nhưng người ta vẫn xây dựng. Những công trình điên dại như thế không phải là hiếm trong xã hội ngày nay.
Trong tuyển tập có tựa đề: "Chuyện ngụ ngôn cho dân Chúa", tác giả người Mỹ, John Oraidio, có ghi lại một câu chuyện như sau:
Có một ông hoàng nọ có một lối sống đặc biệt, ông cùng ăn, cùng làm, cùng giải trí với thần dân, tất cả vương quốc của họ là một thung lũng nhỏ bé dìm sâu trong vùng xa xôi hẻo lánh. An bình và hạnh phúc luôn ngự trị trong cái thung lũng xứng đáng được gọi là thung lũng Tình Yêu ấy, bởi vì tất cả mọi người đều lấy yêu thương mà đối xử với nhau.
Một ngày nọ dân trong cái vương quốc an bình ấy muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đối với ông hoàng của họ, họ bàn với nhau: Chúng ta hãy xây cho quân vương của chúng ta một lâu đài. Một lâu đài đẹp hơn tất cả các lâu đài của các ông hoàng tại các xứ lân cận. Thế là họ bắt tay vào công trình. Quả thực đây là một lâu đài đẹp nhất trong vùng, tường làm bằng đá cẩm thạch trong suốt, các ngọn tháp được xây bằng đá quí, mái nhà được dát vàng còn nền thì lại trát bằng ngà.
Không mấy chốc tiếng đồn về lâu đài được loan truyền đi khắp nơi. Lúc đầu dân chúng trong những vùng lân cận kéo đến, sau đó du khách từ khắp nơi đổ xô về. Tuy nhiên, nơi nào có đám đông thì nơi đó có nhu cầu, thế là dân trong cái thung lũng Tình Yêu ấy bắt đầu dựng lên hàng quán và khách sạn để đón tiếp du khách. Du khách càng đông thì dân càng ăn nên làm ra. Những người dân trong thung lũng này vẫn nhớ rằng họ có được may mắn là cũng nhờ cái lâu đài ấy. Ðể bảo đảm cho sự thịnh vượng được lâu dài họ ra sức bảo trì lâu đài, mà lâu đài càng được trang điểm thì du khách càng kéo đến càng đông hơn. Không mấy chốc cái làng nhỏ bé và mất hút trong thung lũng giờ đây đã biến thành một đô thị sầm uất, thương mại và công nghệ càng lúc càng phát triển. Nhưng dĩ nhiên nơi nào có có làm ăn thì nơi đó có cạnh tranh, cạnh tranh sanh ra ganh tị, ganh tị đẻ ra hận thù, hận thù dẫn đến bạo động. An bình và hạnh phúc đã vỗ cánh bay đi từ lúc nào người dân trong thung lũng cũng không hay biến.
Cuối cùng, một ngày nọ, ông hoàng ra khỏi lâu đài. Ðã lâu lắm rồi dường như người dân trong thung lũng quên đi rằng mình còn có một ông hoàng ngày đêm sống trong lâu đài ấy. Không nói một lời, ông hoàng đi xung quanh lâu đài 7 lần và lạ lùng thay khi ông vừa đi đúng 7 vòng thì lâu đài tự nhiên sập xuống, dân chúng tức giận la ó. Tại sao ngài làm như thế. Ông hoàng bình tỉnh đáp:
- Ta không làm gì cả, ta đi bảy vòng để tìm kiếm gương mặt của các người trên tường thành và tầng tháp của lâu đài, nhưng ta không thấy đâu cả. Lâu đài không còn phản ánh trái tim của dân nữa cho nên nó không thể đứng vững lâu được.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Truyện ngụ ngôn trên đây hẳn là một diễn đạt của hình ảnh về một ngôi nhà trên cát mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng theo thánh Luca. Một ngôi nhà xây trên cát là một ngôi nhà không có nền móng. Chúa Giêsu bảo đó là một công trình điên dại nhất, điên dại là bởi vì mặc dù biết chắc ngôi nhà sẽ bị sụp đổ nhưng người ta vẫn xây dựng. Những công trình điên dại như thế không phải là hiếm trong xã hội ngày nay.
Một cuộc sống không có lý tưởng cũng chẳng có niềm tin, đó chẳng là một công trình hoang phí và khờ dại hay sao. Mơ ước và xây dựng một xã hội không tưởng với giá của không biết bao nhiêu sinh mạng con người, đó chẳng phải là một công trình điên dại hay sao. Ðặt nền móng của xã hội lên trên sợ hãi lừa lọc, dối trá và những của cải chóng qua ở đời này, đó chẳng phải là một công trình điên dại hay sao.
Ðể định hướng lại cuộc sống, người tín hữu Kitô chúng ta không thể không tự đặt ra câu hỏi: Ðâu là nền móng trên đó chúng ta xây dựng cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn ghi tạc Lời Chúa. Chúng con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Trong khi hưởng dụng của cải chóng qua ở đời này và góp phần xây dựng xã hội trần thế.
Xin cho chúng con biết lấy tình yêu thương, niềm tin và những giá trị vĩnh cửu làm động lực thúc đẩy chúng con trong tất cả mọi sự.
Sưu tầm
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)